1. Tấn phong: Khi Hoàng đế muốn sách phong một tần phi lên thêm vị phận.
Ví dụ: Năm Càn Long thứ mười, Càn Long Đế ra chỉ dụ tấn phong Quý phi Cao thị làm Hoàng quý phi; Nhàn phi Na Lạp thị, Thuần phi Tô thị làm Quý phi.
2. Tôn phong: Đương kim Hoàng đế phong cho tần phi của Tiên đế.
Ví dụ: Năm Ung Chính thứ hai, Ung Chính Đế ra chỉ dụ tôn phong Quý phi Đông Giai thị làm Hoàng khảo Hoàng quý phi.
3. Truy phong: Được dùng khi Hoàng đế phong cho một tần phi đã qua đời trước đó.
Ví dụ: Tháng mười, năm Càn Long nguyên niên, Càn Long Đế truy phong Cách cách Phú Sát thị làm [Phi], thụy hiệu [Triết]
4. Truy phế: Một Hoàng đế muốn phế bỏ một người đã qua đời đã nhận truy phong.
Ví dụ như trường hợp Thuận Trị Đế truy phế Hiếu Liệt Vũ Hoàng hậu Ô Lạp Na Lạp A Ba Hợi.
5. Niên hiệu: Chính là hiệu mà một vị Tân Đế mới đăng cơ sẽ chọn làm hiệu của năm, để sử sách và nhân dân dễ phân biệt.
Ví dụ như: Khang Hi, Ung Chính, Càn Long...
6. Miếu hiệu: Là hiệu dùng trong Tông miếu, được dùng cho các vị Hoàng đế đã băng hà, là một dạng của kính hiệu.
Ví dụ như: Thế Tông Hoàng đế, Cao Tông Hoàng đế...
7. Huy hiệu: Là Hoàng đế ban cho một Hoàng Thái hậu.
Ví dụ như: Sùng Khánh Từ Tuyên Khang Huệ Đôn Hòa Dụ Thọ Thuần Hi Cung Ý An Kì Ninh Dự Hoàng thái hậu.
8. Thụy hiệu: Ở đây chia làm bốn trường hợp;
• Thụy hiệu của Hoàng đế: Khi một vị Hoàng đế băng hà, lúc bấy giờ tạm gọi là [Đại hành Hoàng đế], chờ thời gian các vị đại thần cùng Lễ bộ sẽ dâng lên thụy hiệu cho Đế.
Một thụy hiệu của Đế hoàn chỉnh, ví dụ như thụy hiệu của Càn Long Đế là: Pháp Thiên Long Vận Chí Thành Tiên Giác Thể Nguyên Lập Cực Phu Văn Phấn Vũ Khâm Minh Hiếu Từ Thần Thánh Thuần Hoàng đế.
Và thông thường, chữ cuối cùng của thụy hiệu của là [Đế thụy]. Ví dụ như Càn Long Đế là [Thuần Hoàng đế]. Khi một vị Hoàng đế được dâng lên thụy hiệu, mặc định một điều rằng tất cả các vị Hoàng hậu sau của vị Đế đó đều phải thêm [Đế thụy] vào sau thụy hiệu của mình; ví dụ như Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu.
• Thụy hiệu của Hoàng hậu: Khi một vị Hoàng hậu băng thệ, trước khi được dâng thụy cũng gọi là [Đại hành Hoàng hậu], Hoàng đế (nếu còn) cùng với Lễ bộ và Nội Vụ phủ sẽ dâng lên thụy hiệu cho Hậu. Đối với Thanh triều, mặc định các vị Hoàng hậu đều phải có chữ [Hiếu] đầu thụy, sau đó sẽ chọn ra một chữ ý nghĩa thể hiện đức tính để làm thụy.
Ví dụ như: Hiếu Hiền Hoàng hậu – Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu.
• Thụy hiệu cho Hoàng quý phi: Tương tự như đối với thụy hiệu của Hoàng hậu, thụy hiệu của Hoàng quý phi cũng được Đế, Lễ bộ cùng Nội vụ phủ thực hiện dâng lên.
Ví dụ: Tuệ Hiền Hoàng quý phi, Thuần Huệ Hoàng quý phi.
• Thụy hiệu cho Quý phi và Phi: Thanh triều hầu như thụy hiệu dành riêng cho Quý phi và Phi rất ít, riêng Quý phi chỉ ghi nhận một trường hợp duy nhất là Ôn Hi Quý phi Nữu Hỗ Lộc thị của Khang Hi Đế;
Những trường hợp dưới Quý phi và Phi không có thụy hiệu.
Ảnh minh họa: Cảnh đại lễ sách phong Gia Quý nhân Kim Ngọc Nghiên làm Gia tần; Mai Quý nhân làm Mai tần; cung nữ Sách Xước Luân A Nhược là Thận Thường tại trong phim Hậu cung Như Ý truyện.